Môi Giới Hàng Hải Dựa Trên Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam Năm 2015
Thứ năm - 26/05/2022 03:54
A. Môi giới hàng hải là gì? - Cơ sở pháp lý: Điều 244 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 1. Môi giới hàng hải là dịch vụ làm trung gian cho các bên liên quan trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng mua bán tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải. 2. Người môi giới hàng hải là người thực hiện dịch vụ môi giới hàng hải." Theo điều luật trên, Môi giới hàng hải là dịch vụ làm trung gian cho các bên liên quan trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng mua bán tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải. Như vậy, môi giới cũng là một dạng dịch vụ như đại lý tàu biển. Môi giới làm trung gian cho các bên liên quan trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng mua bán tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải. Người môi giới chính là người thực hiện dịch vụ môi giới hàng hải. B. Dịch vụ là gì? Dịch vụ thương mại Thứ nhất, theo từ điển Kinh tế học hiện đại cho rằng: Dịch vụ là các chức năng hoặc các nhiệm vụ được thực hiện mà người ta có cầu và do đó tạo ra giá cả hình thành nên một thị trường thích hợp. Đôi khi dịch vụ được đề cập đến như là những hàng hóa vô hình, một trong những đặc điểm của chúng là được tiêu thụ ngay tại điểm sản xuất. Thường thì chúng không thể chuyển nhượng được, do đó không đầu cơ được, với ý nghĩa này, dịch vụ không thể được mua để sau đó bán lại với mức giá khác. Có người quan niệm dịch vụ là làm một công việc cho người khác hay cộng đồng, là một việc mà hiệu quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người như: vận chuyển, cung cấp nước, đón tiếp, sửa chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy móc hay công trình. Cũng có người nhận định: Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Thứ hai, dịch vụ thương mại, Dịch vụ thương mại là khái niệm để chỉ các ngành kinh tế mà quá trình sản xuất của nó không tạo ra hàng hoá thông thường nhưng lại tạo ra dịch vụ (hàng hoá đặc biệt) bằng cách đáp ứng nhu cầu của con người (cho người khác) ngoài nhu cầu về hàng hoá do nông nghiệp và công nghiệp cung cấp.” Môi giới hàng hải có thể nói nó trong quá trình sản xuất không tạo ra hàng hóa thông thường tạo ra dịch vụ (hàng hoá đặc biệt) bằng cách đáp ứng nhu cầu của con người (cho người khác) ngoài nhu cầu về hàng hoá do nông nghiệp và công nghiệp cung cấp, ngược lại nó cung cấp các dạng dịch vụ khác, nó làm trung gian cho các bên liên quan trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng mua bán tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải. Hiện nay, khi mà ngành dịch vụ thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thì lại càng có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ xem xét dịch vụ theo lý thuyết kinh tế học. Theo lý thuyết này thì “dịch vụ thương mại là một loại sản phẩm kinh tế nhưng không phải là vật phẩm, mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại.” C. Cơ sở pháp lý: Điều 245 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 "Điều 245. Quyền và nghĩa vụ của người môi giới hàng hải 1. Có quyền phục vụ các bên tham gia hợp đồng với điều kiện phải thông báo cho tất cả các bên biết việc đó và có nghĩa vụ quan tâm thích đáng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. 2. Được hưởng hoa hồng môi giới khi hợp đồng được ký kết do hoạt động trung gian của mình. Người môi giới và người được môi giới thỏa thuận về hoa hồng môi giới; nếu không có thỏa thuận trước thì hoa hồng môi giới được xác định trên cơ sở tập quán địa phương. 3. Có nghĩa vụ thực hiện công việc môi giới một cách trung thực. 4. Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới trong thời gian môi giới. 5. Trách nhiệm của người môi giới hàng hải chấm dứt khi hợp đồng giữa các bên được giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác." Thứ nhất, quyền của người môi giới • Người môi giới có quyền phục vụ các bên tham gia hợp đồng với điều kiện phải thông báo cho tất cả các bên biết việc đó; • Người môi giới có quyền được hưởng hoa hồng môi giới khi hợp đồng được ký kết do hoạt động trung gian của mình. Người môi giới và người được môi giới thỏa thuận về hoa hồng môi giới; nếu không có thỏa thuận trước thì hoa hồng môi giới được xác định trên cơ sở tập quán địa phương... Thứ hai, nghĩa vụ - trách nhiệm của người môi giới • Người môi giới có nghĩa vụ quan tâm thích đáng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong hợp đồng; • Người môi giới có nghĩa vụ thực hiện công việc môi giới một cách trung thực. • Người môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới trong thời gian môi giới. • Trách nhiệm của người môi giới hàng hải chấm dứt khi hợp đồng giữa các bên được giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
D. Địa vị pháp lý của người môi giới thuê tàu được hiểu như thế nào? Tại Điều 15 của hợp đòng thuê tàu mẫu GENCON, một hợp đồng vận chuyển theo chuyến rất phổ biến trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển quốc tế, đã quy định khi hợp đồng thuê tàu không được thực hiện vì lỗi của một trong các bên thì bên có lỗi vẫn phải trả cho môi giới thuê tàu 1/3 hoa hồng đã quy định. Tiếp nữa, theo tập quán hàng hải quốc tế, dù việc thuê tàu do chủ hàng (nguời thuê vận chuyển) yêu cầu thì chủ tàu, người vận chuyển vẫn là người phải trả hoa hồng cho người môi giới. Điều 245 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 cũng như điều 151 Luật thương mại năm 2005 đều quy định “người môi giới chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ”. Từ đó. chúng ta có thể nhận thấy rằng một khi hợp đồng thuê tàu đã được ký xong thì việc có thực hiện được hay không, trục trặc nhiều hay ít là trách nhiệm giữa hai bên, người môi giới không có nghĩa vụ và trách nhiệm gì cả với quá trình đó. Có chăng chỉ là ảnh hưởng về uy tín của người môi giới và những lần sau một trong các bên của hợp đồng thuê tàu sẽ không sử dụng môi giới đó nữa. Đối với quá trình đàm phán giao dịch thuê tàu là cả một quá trình mặc cả giữa hai bên có lợi ích đối lập nhau. Người vận chuyển cố gắng tìm mọi cách để cho thuê tàu với giá cao nhất, nhưng ngược lại, người thuê vận chuyển luôn luôn muốn ghìm giá cước hạ. Để chắp nối thành công hai bên là người vận chuyển và người thuê vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng há nói trên, người môi giới phải có kỹ năng và nghệ thuật đàm phán cũng như trình độ chuyên môn nghề nghiệp, am hiểu tình hình thị trường thuê tàu, thế và lực của mỗi bên và tương quan giữa các điều khoản của hợp đồng thuê tàu. Quá trình làm môi giới là một quá trình sinh động, hấp dẫn, nhất là đối với nhũng người nhạy cảm nghề nghiệp. Ví dụ, để thỏa mãn yêu cầu giá cước hạ của người thuê vận chuyển, họ thuyết phục người vận chuyển chấp nhận giá cước đó nhưng lại khôn khéo nâng tốc độ và mức phạt do dỡ hàng chậm lên cao, một điều rất có lợi cho người vận chuyển. Cho nên có thể nói nghề môi giới thuê tàu rất phức tap, khó khăn nhưng cũng hết sức lý thú, hấp đản và luôn có sự đổi mới mỗi ngày. Chính vì vậy người ta cho rằng nghề môi giới thuê tàu mang nặng tính nghệ thuật nhiều hơn tính khoa học. Nghề môi giới với chức năng thay mặt cho các bên ủy thác, người môi giới thuê tàu không bị ràng buộc về pháp lý đối với nghĩa vụ và trách nhiệm của hợp đồng thuê tàu mà chỉ chịu trách nhiệm về việc thi hành những ủy quyền mà họ được người thuê vận chuyển hoặc người vận chuyển ủy thác. Họ không phải là các bên tham gia vào việc thực hiện hợp đồng vận chuyển đã ký kết nhưng thường được người ủy thác giao cho ký kết hợp đồng, nhất là khi hai bên tham gia hợp đồng ở cách xa nhau. Khi thi hành ủy quyền ký kết hợp đồng họ phải tuân thủ nguyên tắc thiết lập hợp đồng thuê vận chuyển là nói rõ họ ký tên theo sự ủy quyền (Authorised Signature) và không chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng mà “chỉ là môi giới mà thôi: “As Broker only”. Nguời môi giới phải nghiêm chỉnh thực hiện một cách cần mẫn, thích đáng hợp lý những yêu cầu mà người ủy thác đưa ra. Phải thông báo đầy đủ, kịp thời mọi thông tin, tình hình cho người ủy thác. Trong bất cứ trường hợp nào cũng phải trung thực, không được lợi dụng những yêu cầu của người ủy thác đề ra, nếu chưa hiểu một cách chắc chắn và đầy đủ những yêu cầu của người ủy thác thì phải hỏi lại, không được tự ý thay đổi. Không được vừa làm môi giới vừa làm người thuê để cùng một lúc vừa hưởng hoa hồng vừa ăn chênh lệch giá cước. Như phương châm hành động của những nhà môi giới thuê tàu trên thị trường thuê tàu London, một trung tâm thuê tàu sôi động bậc nhất thế giới, là: “Nói lời phải giữ lấy lời” (Our word is our bond). Đối với người ủy thác, nếu đã giao dịch qua mồi giới rồi mà lại nhận được đơn chào (Offer) trực tiếp thì phải trả lời là mình đã giao dịch qua môi giới. Một khi đã ủy quyền cho môi giới thì không được giao dịch thẳng với người vận chuyển hoặc người thuê vận chuyển. Người ủy thác phải tôn trọng nội dung những vấn đề đã đưa ra cho môi giới, muốn thay đổi phải thông báo lại kịp thời. Một điều hết sức tránh đối với nguờỉ ủy thác là khi đã giao dịch qua một môi giới rồi thì không bắt cá hai tay, đồng thời phải giao dịch với một môi giới khác. Khi thấy giá chào của môi giới khác hấp dẫn hơn thì phải điều tra nghiên cứu kỹ vì những lừa đảo trong thuơng mại hàng hải quốc tế thường lợi dụng tâm lý thích giá hời để lừa bịp cả người thuê tàu lẫn người chuyên chở. E. Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải là bao nhiêu năm? Thứ nhất, theo Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về: "Thời hiệu" như sau: "1. Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. 2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ." Thứ hai, thời hiệu theo quy định chung có nhiều loại, như: "1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự. 2. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ. 3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. 4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu." Theo Điều 245 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện đối với việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải được quy định như sau: "Điều 246. Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp." Trân trọng!